Tại sao phải là Cách Mạng ?

TẠI SAO CHỌN GIẢI PHÁP CÁCH MẠNG DÂN TỘC ?

Ý chính:  Những gì đang diễn tiến tại Việt Nam là sự tiếp tục của tiến trình Cách Mạng Dân Tộc (CMDT) đả khởi sự từ khi người Pháp đến đặt nền đô hộ lên Việt Nam trong thế kỷ 19.  Vì vậy, giải trừ Quốc nạn bằng con đường CMDT là sự lựa chọn phù hợp với xu hướng lịch sử và đáp ứng lại nguyện vọng của Dân Tộc.  Chỉ có CMDT mới giải quyết tận gốc rễ hai quốc nạn: ngoại xâm và nội loạn. Xin đọc bài khảo cứu “Vấn Đề Việt Nam Là Gì ? Phải Giải Quyết Cách Nào” để hiểu rõ vấn đề và giải pháp của nó.

VẤN ĐỀ VIỆT NAM LÀ GÌ? PHẢI GIẢI QUYẾT CÁCH NÀO?

A. VẤN ĐỀ VN LÀ GÌ?

I- NHẬN THỨC ĐÚNG ĐẮN VỀ TÌNH HÌNH VIỆT NAM

Chúng ta đứng trước kẻ thù của dân tộc là Đảng CS đang thống trị VN.  Chúng ta, những người còn nghĩ đến đất nước, đả và đang làm hết sức mình, chiến đấu để dẹp bỏ chế độ tân thực dân này.  Khi chế độ CS còn tồn tại, sự tồn tại đó nói lên những đòn đánh của chúng ta không hửu hiệu.

Như thế thái độ hợp lý trong mọi cuộc chiến đấu là trong tình trạng đó, chúng ta phải duyệt lại căn bản chiến đấu tức là xem cơ sở lý luận dựa trên đó chúng ta chiến đấu có đúng đắn không.

Trong tinh thần đó, xin trình bày hai chủ đề sau đây:

1- Vấn đề VN là gì ?
2- Phải giải quyết vấn đề VN cách nào ?

Bài viết gồm hai phần đi đôi với hai chủ đề nêu trên.

Trong bài này chúng tôi trình bày ý kiến của nhóm Thiện Chí về vấn đề VN là gì, rất mong sự đóng góp ý kiến của những người còn nghĩ đến đất nước VN và sự chỉ giáo của các bậc cao minh.

II- MỘT BÀI HỌC LỊCH SỬ

Để tìm hiểu ý nghĩa những biến cố đã diễn ra trên đất nước VN bất hạnh từ 1945 đến nay, sự trở lại những bài học trong lịch sử cận đại VN hết sức cần thiết cho cuộc chiến đấu chung.

Chúng ta hãy nhìn lại bài học mất nước đưới Triều Nguyễn trong thế kỷ 19.  Trước sự hăm dọa cuả súng đồng tàu chiến Tây Phương đang chạy đua đô hộ các nước yếu làm thuộc địa tại Á Đông, triều đình nhà Nguyễn rất lo sợ cho số phận VN.  Các vị đại thần, những cố vấn cao cấp giúp nhà vua hoạch đinh chánh sách, từ Minh Mạng đến Tự Đức, không nhận chân đúng đắn bản chất cuả nguy cơ đặt ra cho VN.  Các vị cho rằng mối nguy này xuất phát tù những người Việt theo đại Công Giáo vì thực dân Tây Phương trước khi giở đòn võ lực phải thâu lượm tin tức về địa lý, nhân văn, mội tình VN mới hành động được.  Nguồn tin tức đó phần lớn do người Công giáo cung cấp qua sự chuyện trò bình thường hằng ngày của con chiên và Cố đạo Tây Phương.  Triều đình nghĩ rằng triệt hạ hoạt động Công Giáo tại VN là hoá giải nguy cơ.  Lệnh cấm đạo được ban ra lôi kéo theo bao nhiêu hệ quả thảm khốc cho người vô tội và làm  sứt mẽ tình đoàn kết quốc gia.  Thực ra nguy cơ do người Công Giáo đặt ra cho nền độc lập chỉ là một khía cạnh nhỏ bề nỗi của tảng băng.

Triều đình nhà Nguyễn đã nhận định sai lầm.  Vấn đề thực sự của VN trong bối cảnh quốc tế thời đó là sự chênh lệch quá lớn giửa quyền lực quốc gia của các nước Tây Phương so với VN.

Cho đến khi cụ Phan Thanh Giản đi sứ Pháp trở về, các vị đại thần không biết rằng các nước Tây Phương, từ thế kỷ 18, đả đặt trọng tâm vào các bộ môn khoa học vật lý và kỷ thuật học trong giáo dục và ứng dụng khoa học và kỷ thuật vào công nghiệp.  Kết quả công nghiệp của họ phát triển vượt bực kéo theo sự phát triển ngoại thương.  Công nghiệp và thương mải phát triển mang lại sự giàu mạnh và các nước Tây Phương có nhu cầu tìm thuộc địa để được cung cấp  nguyên liệu rẽ tiền, cũng là nơi tiêu thụ sản phẩm cho nền công nghiệp mẫu quốc.

Vì nhận định sai lầm về bản  chất của vấn đề trọng đại đặt ra cho VN, triều đình nhà Nguyễn không đi theo con đường canh tân của Nhật Bản dưới triều Minh trị.  Triều đình không sửa đổi chương trình giáo dục, canh tân Quân Đội, phát triển công thương nghiệp, những việc làm tối cần thiết để tăng cường quyền lực quốc gia, giúp cho nước ta thoát khỏi tai họa mất nước.  Dân tộc VN đả trả 1 cái giá quá đắt cho sự nhận định sai lầm của triều đình nhà Nguyễn.

Mong rằng bài học lịch sử còn nóng hổi đó giúp cho kẻ hậu sinh dẹp qua một bên tự ái hảo, nhìn vào sự thực đang diễn tiến trước mắt ta tại VN để cố tìm hiểu vấn đề VN là gì.  Từ đó chúng ta mới sang bước kế tiếp tìm giải pháp tốt đẹp nhứt để giải quyết vấn đề VN cách nào hầu chấm dứt nỗi đau khổ của cả một dân tộc đả kéo dài quá lâu.

III- VẤN ĐỀ VIỆT NAM LÀ GÌ ?

Cách đây hơn 4000 năm, trong khu vực rộng lớn phía Nam Động Đình Hồ được người Hán gọi là đất Giang Nam có nhiều bộ tộc thuộc nòi Bách Việt sanh sống.  Người Bách Việt thường bị người Hán, đông hơn, văn minh hơn từ lưu vực sông Hoàng Hà tràn xuống phía Nam uy hiếp.  Sau một thời gian dài tranh chấp, người Hán sau cùng đả thôn tính toàn thể đất Bách Việt và hầu hết bộ tộc Việt trên khu vực đó lần lần bị Hán hóa để trở thành người Hoa ở Hoa Nam ngày nay.  Dầu sao di tích Bách Việt vẩn còn sót lại trên nhiều lãnh vực như trong địa danh tỉnh Quảng Đông còn được gọi là đất Nam Việt, tỉnh Phúc Kiến là đất Mân Việt. v.v…

Trong số hàng trăm bộ tộc Bách Việt, có một bộ tộc tha thiết với lối sống riêng của mình, tìm thấy hứng thú trong lối sông đó, không chấp nhận sự đô hộ của người Hán, họ phải chiến đấu và lui dần về hướng Nam.  Cuộc Nam tiến lần đầu này kéo dài trên 1000 năm.  Khi lui đến lưu vực sông Hồng Hà, xa sức ép của người Hán, bộ tộc Việt gặp một bộ tộc điạ phương mang tên LẠC. Người LẠC tỏ ra thân thiện với người Việt nên người Việt dừng lại định cư chung sống với những người bạn mới.  Sự chung sống lâu dài, hòa hợp huyết thống đã đưa đến sự hình thành một cộng đồng Việt mới gọi là người Lạc Việt.

Người Hán sau khi thôn tính đất Bách Việt và đồng hóa người bản xứ bắt đầu dòm ngó đất Lạc Việt.  Trước nguy cơ ngàn đời này người Lạc Việt thấy nhu cầu thành lập một quốc gia tập hợp tất cả bộ tộc Lạc Việt để có đủ phương tiện đối phó với nạn ngoại xâm là nhu cầu thiết yếu.  Sự lập quốc cho ra đời một nhà nước thô sơ theo thể chế quân chủ.  Quốc gia mới ra đời khoảng thế kỷ thứ 7 trước Công Nguyên mang danh hiệu Văn Lang. Vị vua đầu tiên thuộc họ Hồng Bàng xưng danh hiệu Hùng Vương.

Vấn đề chính yếu chi phối cuộc sống của người Lạc Việt này là Việt Nam từ ngày lập quốc đến nay là vấn đề của một dân tộc nhỏ yếu vì sự ngẫu nhiên của địa lý chính trị khiến cho người Việt trở thành láng giềng bất đắc dĩ của một dân tộc lớn, hùng mạnh mang ước vọng dân tộc cố hữu là chủ nghĩa Đại Hán.  Người Việt quý trọng nếp sống riêng của mình tức là nền văn hóa đặc thù của mình, không để cho kẻ mạnh đô hộ và đồng hóa nên quyết tâm bảo vệ nền độc lập sau khi lập quốc vơi bất cứ giá nào.  Quyết tâm sống độc lập và bảo vệ độc lập là hai yếu tố then chốt chi phối mọi biến cố chính trị quan trọng trong lịch sử Việt.  Hai đặc tánh nầy của dân tộc Việt là tư tưởng chủ đạo trong nghệ thuật trị quốc của bất kỳ triều đại nào thời độc lập.

Trong cái rủi có cái may như chuyện Tái Ông mất ngựa.  Sở dĩ người Việt có được hai đức tính quí báu này vì bị đặt vào hoàn cảnh bi đát của một kẻ đứng bên bờ vực thẩm bị một kẻ mạnh uy hiếp.  Nếu không liều chết đem hết sức ra chống cự thì bị đẩy xuống vực thẩm nát xương.

Chúng tôi không hề làn cái trò mèo khen mèo dài đuôi, tự đề cao dân tộc mình khi nói rằng điểm nỗi bật trong dân tộc tính người Việt là tinh thần bất khuất trong chiến đấu mỗi khi nền độc lập quốc gia bị hăm dọa hay tước đoạt.  Tinh thần nầy do hoàn cảnh khách quan khó khăn tạo ra trong tâm lý cá nhơn người Việt cũng  như trong tâm lý cộng đồng, lưu truyền từ đời nầy qua đời khác, đả lắng  sâu vào tiềm thức và trở nên một thứ bản năng, bản năn sinh tồn dân tộc.

Các học giả ngoại quốc nghiên cứu về VN thường không hiểu rõ nguồn cội của quyết tâm sống độc lập và bảo vệ độc lập của người Việt nên ít có người hiểu được bản chất các biến cố quân sự, chánh trị, xả hội đả đang diển ra trên đất nước Việt từ ngày người Pháp đặt nền đô hộ trên xứ nầy.  Hiếm có học giả mào có cái nhìn sâu sắc về động cơ thúc đẩy người Việt chiến đấu giành độc lập bằng giáo sư Pháp Paul Mus khi ông viết:

“Ngay từ khi lập quốc, mấu chốt của lịch sử Viêt là tinh thần đề kháng ngoại xâm được hòa hợp một cách nghịch lý với khả năng đồng hóa những gì từ ngoài du nhập vào, một tinh thần quốc gia quật khởi không gì lay chuyển được mặc dù bị thua trận, bị phân chia, bị chinh phục.”

Sự tha thiết bảo vệ độc lập đã thúc đẩy người Việt yêu nước đứng lên làm Cách Mạng khi chủ quyền quốc gia bị ngoại bang chiếm đoạt.

Theo định nghĩa thông thường, Cách Mạng (CM) là một hành động mạnh bạo có khi bằng vũ lực của những người bất mản đứng lên thay đổi một trật tự chính trị hoặc xã hội sau khi mọi mưu toan thay đổi ôn hòa hay trong vòng luật pháp đều thất bại.

Trong lịch sử Việt, có những hôn quân bạo Chúa áp bức dân chúng nhưng không hề có CM.  Bạo chúa chỉ bị một người có tài đức được nhiều người ủng hộ đứng lên lật đổ để dựng nên một triều đại mới.  Người Việt thực sự làm CM khi nào người cầm quyền là người ngoại quốc và chế độ cai trị là chế độ thực dân.

Cuộc CM của dân Việt để lật đổ trật tự chính trị của thực dân mang nhiều đặc tính không hề có trong CM thông thường.  Những đặc tính nầy liên quan đến đức tính căn bản của người Việt khi lập quốc là tinh thần bất khuất.  Vì có những đặc tính nầy mà chúng tôi gọi CM của người Việt là Cách Mạng giải phóng dân tộc hay nói gọn là CM dân tộc.  Trong những cuộc CM nầy, luôn luôn có những đặc tính sau đây:

1- CM chỉ diễn ra khi người ngoại quốc cướp đoạt độc lập, báu vật của người Việt, để thiết lập chế độ cai trị thực dân.

2- CM là một tiến trình chiến đấu trường kỳ dưới mọi hình thức kéo dài từ thế hệ nầy qua thế hệ khác cho đến khi người Việt đạt được mục tiêu, dẹp  bỏ chế độ thực dân. Trong lịch sử thế giới, chưa có dân tộc nào bị người ngoại quốc văn minh hơn, mạnh hơn đô hộ 1000 năm mà không bị đồng hóa, vẫn tiếp tục chiến đấu khi thời cơ thuận tiện đưa đến.  Trận chiến thắng Bạch Đằng Giang lần thứ nhất của Ông Ngô Quyền không phải là cuộc nổi dậy của người Việt bị Hán hóa như người Quảng Đông không thần phục Trung Ương nhưng đây là sự kết thúc trong thắng lợi của một cuộc chiến dai dẳng của người Việt bị mất độc lập chống lại kẻ thống trị thực dân để giành lại độc lập.

3- Cách Mạng Dân Tộc là một cuộc chiến đấu liên tục.  Người Việt làm CM không bao giờ bỏ cuộc dầu gặp bao nhiêu thất bại.  Nếu không có tinh thần bất khuất thấm nhuần nội tâm nhà CM thì CM dân tộc không có tánh chất nầy.

Cuộc chiến đấu giữa thực dân cai trị và người Việt bị trị là một hành động tự sát cho kẻ bị trị khi tương quan lực lượng giũa thực dân và người Việt quá chênh lệch.  Tương quan nầy chỉ nghiêng về phía CM trong giai đoạn chót.  Trước khi thực dân yếu thế, mỗi cuộc khởi nghĩa là một lần cầm chắc thất bại với hậu quả bi thảm cho nhà CM và gia đình họ.  Khi chí sỉ Nguyễn Thái Học nói câu: “Không thành công thì thành nhân” trước khi phát động khởi nghĩa, ông đả cầm chắc phần thua rồi.  Tuy nhiên, thấy thua chắc không ngăn cản được người CM hành động.

Từ Nguyển Trung Trực (bị thực dân Pháp xử tử năm 1868) đến Trần Văn Bá (bị thực dân CS xử tử năm 1985) 117 năm đã trôi qua.  Suốt thời gian đó, 6 thế hệ CM tiếp nối chiến đấu và hy sinh.  Ở đây chỉ kể tên các vị anh hùng tượng trưng cho mỗi thế hệ vì anh hùng CM Việt Nam nhiều đến độ không thể kể hết.  Đây là một hảnh diện cho ai còn xem mình là  người Việt.  Sau thế hệ Nguyễn Trung Trực là thế hệ Phan Đình Phùng, rồi Phạm Hồng Thái, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học, Trương Tử Anh, Trần Văn Bá.  Những vị anh hùng nầy thuộc nhiều giai tầng xả hội khác nhau, được giáo dục khác nhau, gia nhập nhiều tổ chức chính trị khác nhau, nhưng tất cả tham gia CM vì:

-Một lý do: mất nước
-Một mục tiêu: dẹp bỏ chế độ thực dân
-Một thái độ tranh đấu đồng nhất: tinh thần bất khuất

Sự tiếp nối chiến đấu của các thế hệ CM trong thời gian xác nhận tánh chất liên tục và không bỏ cuộc của CM dân tộc.

4- CM Dân Tộc là một thúc hối nội tâm không cưỡng lại được đối với người Việt còn chất Việt trong huyết quản.  Khi nhìn thấy bao nhiêu vị anh hùng hy sinh cho CM, người ngoại quốc cho rằng đó là hành động nông nổi vì đem trứng chọi đá.  Nếu dùng lý trí nhìn vấn đề thì đúng như thế nhưng người ngoại quốc đâu có biết chiến đấu cho CM Dân Tộc không phải một hành động xuất phát từ lý trí nhưng vì bị thúc đẩy bởi một cái lực khó hiểu trong nội tâm, khó giải thích gọi là bản năng sinh tồn hay là HỒ̀N  NƯỚC.

Có thể xem CM Dân Tộc là một biến cố tự phát sau khi người ngoại quốc áp đặt chế độ thực dân lên đầu dân Việt và khi đa số dân chúng ý thức được thân phận nô lệ của kẻ mất nước.

Khi trình bày tánh chất của CM Dân Tộc khiến cho biến cố này khác cuộc cách mạng thường và làm cho người Việt hảnh diện, chúng tôi phải nói khía cạnh tiêu cực của nó.  Cái giá phải trả quá đắt toàn thể người Việt không chừa một ai đều phải gánh chịu.  Chúng ta thử so sánh nước Nhật và Việt trong thế kỷ 19.  Cả hai nước đều có chung một phần văn hóa Khổng Mạnh trong nền văn hóa của mình, hai dân tộc đều thông minh, cần cù.  Người Nhật lợi hơn Việt nhờ cách xa Trung Hoa bởi một  cái biển.  Đất Việt có nhiều tài nguyên thiên nhiên hơn Nhật.  Hai nước kể như ngang nhau trong thế kỷ 19, có vị thế khác nhau vào cuối thế kỷ 20.  Nhật  là một đại cường có nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới, Việt Nam là một trong những nước nghèo nhất thế gới đang đóng vai ăn mày với bất kỳ nước nào CS liên lạc.

Tuy nhiên, trước cái giá quá đắt đó, không có một thế lực nào trên đời nầy bắt người CM Dân Tộc dừng tay khi chế độ thực dân còn đó dầu núp dưới danh hiệu nào.  Đều nầy bạn cũng như thù của CM nên nhớ cho.

Sau khi đả trình bày dài giòng cề CM Dân Tộc, chúng tôi trở lại với câu hỏi đang ray rứt nội tâm của bao nhiêu người Việt còn băn khoăn với đất nước Việt:  VẤN ĐỀ VIỆT NAM LÀ GÌ ?

Chúng tôi trả lời:

Những gì đã diễn ra trên đất nước VN từ khi Đảng CS Đông Dương chiếm chánh quyền năm 1945 cho đến nay là sự tiếp tục của tiến trình CM Dân Tộc đả khởi sự khi người Pháp đến đặt nền đô hộ lên VN trong thế kỷ 19.

Trong lịch sử Việt từ ngày lập quốc, tiền nhân chúng ta đả làm 3 cuộc  CM:

– Lần một kéo dài ngót 1 ngàn năm, sử gọi là thời kỳ Bắc thuộc, chấm dứt với trận Bạch Đằng Giang lần thứ nhất năm 939.

– Lần hai kéo dài 21 năm, từ 1407, năm quân Minh mượn cớ đánh nhà Hồ để khôi phục nhà Trần, kéo sang  Đại Việt rồi chiếm luôn đát Việt đến năm 1428 khi toàn bộ quân Minh đầu hàng Bình Định Vương Lê Lợi tại Hà Nội.

– Lần ba, CM Dân Tộc khởi đầu khi quân Pháp dùng vủ lực chiếm ba tĩnh Miền Đông Nam Kỳ năm 1862 và kéo dài cho đến ngày nay.

Có lẽ những người chưa kịp suy nghĩ sẽ nhảy đứng lên cho rằng chúng tôi  ngụy biện khi nói CM Dân Tộc đang diễn tiến vì chúng tôi đã nói trong đặc tính thứ nhất khiến cho phát sinh CM Dân Tộc là người cai trị phải là ngoại quốc và chế độ cai tri là chế độ thực dân.  Người CS đang cai trị VN không phải là người Việt sao ?

Chúng tôi khảng định không sợ lầm lẫn:  người CS gọi là VN đã và đang nắm quyền lực tại VN không phải là người Việt mặc dầu những dấu hiệu bề ngoài, hình dáng, tiếng nói là người Việt.  Sự nghịch lý nầy đả được nhóm Thiện Chí chứng minh trong bài “Người CS Việt Nam có phải là người Việt hay không?.”

Không ít nhà nghiên cứu chính trị VN đồng ý về vấn đề nầy mặc dù họ không xài chử bộc trực như chúng tôi.  Ông Đỗ Thái Nhiên viết:

“Cộng Sản Việt Nam không còn là người VN từ hơn nữa thế kỷ qua.  Họ là những người Việt vong thân, ở vào tình huống vong thân” (Đổ thái Nhiên – Thời Luận, California ngày 1-9-98).

Chúng tôi nhấn mạnh CM Dân Tộc là một biến cố khách quan vượt ngoài ý muốn của người CS cũng như người Việt chống Cộng.  Không thể thù nghịch với CS rồi vu oan cho họ không phải là người Việt.  Vì không phải là người Việt nên CS mới bị mắc vào cái vòng oan nghiệt mà CM Dân Tộc đả tròng lên đầu bọn thực dân Tàu và Pháp ngày xưa và nay là CS.  Vòng oan nghiệt nầy có thể tóm gọn trong các chử:  NỖI DẬY – ĐÀN ÁP – NỖI DẬY .

Gọi là vòng oan nghiệt vì kẻ cầm quyền thực dân vừa mới dẹp tan một cuộc nỗi loạn này thì không lâu sau một cuộc nỗi loạn khác lại bùng nỗ.  Những người nỗi loạn mới vẫn đeo đuổi mục tiêu thường trực cũ “dẹp bỏ chế đệ thực dân với bất cứ giá nào”, cũng vẫn tánh chất bất khuất trong chiến đấu.  Sự đàn áp của thực dân không phải là một trò đùa, nhất là vào thời đại phương tiện truyền thông còn thô sơ, các tổ chức nhân quyền quốc tế không có tiếng nói.  Khi những tay thực dân Tàu, Tô Định nhà Hán, Phương Chính nhà Minh, thực dân Pháp dẹp loạn, chuyện đó có nghĩa là bao nhiêu cái đầu rơi, bao nhiêu gia đình tan nát, có khi còn triệt hạ cả làng như Cổ Am thời VN Quốc Dân Đảng khởi nghĩa.  Hãy đặt mình vào vị trí của bọn đầu trâu mặt ngựa đội lớp người gọi là thái thú Thiên Triều hay toàn quyền Đông Pháp mới thấy chúng lo sợ mất ăn mất ngủ thế nào trước một kẻ địch, giết bao nhiêu cũng xông tới mặc dù bề ngoài các đại quan thực dân xưa và nay chỉ hát một điệp khúc:  “tình hình đả ổn định, trật tự đã an bài !.”

Ngày nay các quan chức Cộng Sản vẫn theo gương tiền nhân của chúng là thái thú Tàu và toàn quyền Pháp sau vụ Thái Bình cố lên giọng hát: “tình hình đã ổn định.”  Tiếc rằng nhân dân Việt, cái thứ nhân dân cưng yêu của CS trong lời nói, lại dâng cho chúng liên tiếp các màn hát khá cụp lạc, Xuân Lộc Trà Cổ, rồi Nam Định, rồi Bắc Ninh.  Không biết trong tương lai nhân dân yếu quý còn dành cho chúng những trò thích thú nào nữa!

Trong hàng ngũ thực dân cai trị có lẽ Hồ Chí Minh hiểu nhiều nhứt giá trị của hai chữ đọc lập đối với dân Việt.  Với thủ đoạn thiên phú, họ Hồ cố ý nhồi nhét khẩu hiệu độc lập ăn cắp của Tam Dân Chủ Nghĩa Trung Hoa vào những khẩu hiệu rỗng tuếch của nước VN Dân Chủ Cộng Hòa – Xin miễn phê bình về cái bánh vẻ độc lập của  Hồ.  Chúng tôi mượn nhận thức của một nhân dân về trò hề bịp nhân dân nầy.  Trong một bữa rượu, một nhân dân có lẻ đã thụ hưởng nhiều cay đắng trong cái độc lập mà họ Hồ và Đảng CS luôn luôn hãnh diện, đã bốc đồng  trông hơi men:  “độc lập cái chó gì mà mỗi khi Tổng bí thư Đảng CS Liên Sô hay Mao Chủ tịch tằng hắng một tiếng là bên nầy các quan ta đái vải ra quần !”

Sự nhận thức bình dân nầy nói lên một sự thực, tất cả các quan lớn CS Việt Nam đều là những  thái thú của Thiên Triều CS cữ qua cai trị thuộc địa VN.

IV- NHẬN THỨC CỦA DÂN VIỆT NAM VỀ NGƯỜI CỘNG SẢN

Chúng tôi khẳng định người CS gọi là VN (đây là mẫu người gọi là CS thuần thánh đả  thay nhau cai trị VN từ nữa thế kỷ nay) là người ngoại quốc và chế độ áp đặt lên đầu dân VN là  chế độ thực dân với đầy đủ đặc tánh thực dân của nó.  Nếu cho sự khẳng định nầy là ý kiến chủ quan của một nhóm người ít có giá trị thì chúng ta phải hỏi lại lý kiến của tập thể được CS bề ngoài đề cao là con cưng tức là nhân dân VN.

Chúng ta cứ nhìn tình hình VN từ 1975 đến nay sẽ thấy rõ người CS dưới cái nhìn của dân là gì.

4.1- Sử dụng từ ngữ

Đây là một cách nói chuyện tự phát không hề do một người chống Cộng nào xúi  biểu mà có xúi chưa chắc người bình dân nghe.

Trước 1945, người  Việt khi đề cập đến người Pháp trong câu chuyện gọi là NÓ.  Chữ nó ở đây ám chỉ đó là người ngoại quốc, hay là thằng tây, kẻ nghịch với người Việt Nam chúng ta. Từ ngày Pháp rút đi năm 1956, không bao giờ người dân gọi những nhà cầm quyền kế tiếp là nó dầu họ không thích đi nữa.

Chử nó xuất hiện lại trong giới bình dân sau ngày 30-4-75 tại miền Nam.  Họ nói với nhau bằng câu “nó cấm chở gạo”, “nó bắt đi kinh tế mới”,  “nó ác hơn tây.”  Khi nói  câu “nó ác hơn Tây, dân Việt xem bọn cầm quyền CS với Tây là một thứ nhưng CS ác hơn Tây nhiều.

Cũng sau ngày 30-4-75, từ ngữ MẤT NƯỚC xuất hiện.  Hình như trong sách lịch sử Việt, chưa bao giờ ghi nhận từ ngữ mất nước khi dân nói chuyện với nhau sau khi Trần Thủ Độ cướp nghôi nhà Lý, Hồ quý  Ly cướp ngôi nhà Trần, Mạc đăng Dung cướp ngôi nhà Lê.

Người Việt chỉ dùng từ ngữ mất nước sau khi Pháp đặt nền đô hộ tại VN.  Sau ngày 30-4-75, tại miền Nam giới bình dân cũng như người có học không theo CS đều dùng từ ngữ mất nước một cách vô tình.  Trên đất Mỹ, người chống Cộng, báo chí cũng xài từ ngữ mất nước gần như vô tình.  Chính cái vô tình trong cách dùng chữ được đại chúng hóa nói lên sự bén nhạy trong nhận thức Bạn và Thù của người Việt.  Có khi nào nước Việt bị mất khi người Việt cai trị người Việt ?

4.2- Thái Độ Dân Đối Với Chánh Quyền CS

Trong lịch sử Việt, người dân chống đối chánh quyền thực dân dưới hai hình thức tiêu cực và tích cực.

4.21- Chống Cộng Tiêu Cực

Đây là vũ khí của kẻ yếu, không thấy ngay hiệu quả nhưng vô cùng lợi hại vì thực dân có biết cũng khó chống đỡ.  Tại VN, chính sự đối kháng tiêu cực dưới  hình thức Ì RA của dân đã bẻ gẫy chánh sách duy ý chí của CS đưa nước Việt lên xã hội chủ nghĩa.

Trong chính sách nầy, có hai điểm quan trọng bị sự chống đối tiêu cực tự phát làm mất tác dụng.

Thứ nhất, chánh sách hộ khẩu.  Đây là một sáng chế hết sức lợi hại xuất phát từ đầu óc gian ác của người CS Nga để kềm kẹp dân.  Ngoài chuyện kiểm soát cư trú, di chuyển của mỗi  người dân, quản lý hộ khẩu nhằm kiểm soát bao tử của mọi người, một sự kiểm soát mà CS tin rằng dân có cứng đầu thế mấy cũng phải ngoan ngoản phục tùng tuân theo ý muốn của chúng.  Người dân nào bất hạnh bị cúp hộ khẩu, sẽ mất luôn khẩu phần mua gạo ở cữa hàng nhà nước.  Anh/chị ta sẽ bị chết đói nếu không có tiền mua gạo chợ đen.

Bắt đầu năm 1976, trước lịnh cấm chở gạo, nông dân chở gạo lậ̣u đem bán ở vài điạ điểm nhỏ.  Sau đó chở gạo lậu trở thành một phong trào quy mô lớn, lan dần ra khắp đồng bằng sông Cử Long.  Công An CS làm sao bắt hết khi đây là một phong trào tự phát của nhân dân, người người tham gia.  Vả lại Công An đã bắt đầu nếm mùi tham nhũng.  Sau cùng lện cấm chở gạo chỉ là đầu đề cho bao nhiêu chuyện trào phúng, châm biếm của dân.  CS đành bấm bụng hợp thức hóa một chuyện đã rồi bằng cách bải bỏ lệnh cấm chở gạo tức là mặc nhiên xóa bỏ sự kiểm soát bao tử dân bằng hộ khẩu.

Sau đó thì lệnh cấm chở thực phẩm, thit, cá cũng bị bải bỏ.  Không cần biết kinh tế học là gì người dân Miền Nam kéo theo dân Miền Bắc, bắt buộc CS bải bỏ  những trói buộc phi lý, ngu ngốc lên thị trường, những trói buộc nầy là cốt tủy của chính sách tiến lên Xã Hội Chủ Nghĩa.

Khi người CS thi hành chánh sách Đổi Mới với Đại Hội VI năm 1986, tư bản quốc tế reo hò mừng rõ không ngớt lời ca ngợi cho rằng CS đã ý thức được tính ưu việt của thị trường tự do trong sinh hoạt kinh tế.  Trong thực tế, đây chỉ là miễn cưỡng hợp thức hóa sự đối kháng tiêu cực của dân mà CS bất lực không dẹp được.  Đây cũng là để cho dân đói đừng nỗi  dậy (năm 1985 tại Thái Bình và nhiều nơi khác đã bị đói).

Thứ Nhì – Hợp tác hóa nông nghiệp.  Đây là trọng điểm của kinh tế CS.   Đám CS Việt Nam, những con bệnh  hoang tưởng nặng, nghĩ rằng với bàn tay sắt sẽ biến toàn thể đồng ruộng VN từ Nam chí Bắc thành những hợp tác xã nông nghiệp và nông trường quốc doanh như tại Mãu quốc Nga.  Một lần nữa họ thất bại vì không đánh giá đúng mức tinh thần đề kháng thụ động của dân.  Gọi CS là những con bệnh hoang tưởng vì CS cứ khăng khăng tin rằng những người bị họ áp bức, bóc lột là phe ta như thời kháng Pháp.  Trên đời nầy có con người nào bị áp bức bóc lột đến tận cái quần lót mà thương yêu tha thiết người bóc lột mình không ?  Không biết những vụ Kim Nỗ, Xuân Lộc, Thái Bình, Nam Định, Bắc Ninh có làm cho các đồng chí bớt hoang tưởng  chút nào không ?

Cứ nhìn chuyện CS sử dụng danh từ nhân dân thì biết CS đả bị hoang tưởng làm mù quáng đến mức nào. Quân đội, Toà Án, Đài phát thanh cho đến Công An đều là nhân dân tuốt luốt hết.  Ý CS muốn nói tất cả của nợ nói trên là của nhân dân, cục cưng của nhân dân, được nhân dân nâng niu trìu mến.  Dân Việt cũng đáo để lắm.  Họ gọi những của quý của nhân dân đó là nhăn răng:  quân đội nhăn răng, Công An nhăn răng v.v…

Khi mới chiếm Miền nam, chuyện đầu tiên của CS trong  chánh sách tiến lên XHCN là  nhắm vào nông nghiệp, vú sữa chánh của miền Nam.  Tất cả đất đai của nông dân đều bị sung công, mỗi người nông dân chỉ được chừa cho mảnh đất nhỏ để canh tác tạm sống.

Bước kế tiếp là hợp tác hóa nông nghiệp.  CS chọn ở mỗi tĩnh những khu vực thuận tiện nhứt đất mầu mỡ, thủy lợi tốt, đường di chuyển thuận tiện để thiết lập các nông  trường quốc doanh mẫu mực để toàn thể nông thôn tổ chức theo.  Nhân công của các nông trường lấy từ các nông trường quốc doanh tiên tiến ở Bắc, nhiều nhất là dân Thái Bình.  CS hy vọng đây là nông dân mẫu mực XHCN  đem vào Nam cho nông dân miền Nam bắt chước.

Sau vài mùa, nông trường quốc doanh hiện nguyên hình là cổ máy rút tiền, thu hút năng lực của tài sản công.  Nông dân miền Bắc, thay vì chỉ cho dân  Nam thấy sự ưu việt trong canh tác tại một cơ sở quốc doanh đã chỉ cho nông dân miền Nam nghệ thuật ăn cắp của công mà không bị phạt.  Một công việc như đào đất ở miền Nam một người làm thì trong nông trường phải ba người làm.  Cái gì có thể ăn cắp được đem bán đều bị ăn cắp, từ cái đinh óc của cổ máy đến con dao trong nhà bếp.  Gieo phân hoá học bằng tay, thay vì rãi đều từng nắm thì ngoài số lượng phân bị ăn cắp từ kho ra đến  ruộng  số còn lại được người công nhân nông trường trút nguyên bao xuống đất khi vắng mặt  viên đốc công.  Đến mùa, trên cánh đồng có chổ lúa cao khỏi đầu, chổ còi cọc xác xơ !  Nông dân bảo nhau, đó kỷ thuật XHCN trồng lúa ưu việt  như vậy!  Còn bao nhiêu hình thức ăn cắp và làm cho có lệ khác không kể hết.  Cung cách làm ăn như vậy mà  xí nghiệp không sập tiệm là một chuyện lạ.  Mà trong thực tế thì sự sập tiệm của cách nông trường quốc doanh diễn ra  chỉ  sau vài mùa thôi.  Giàu như Mỹ mà làm ăn như vậy cũng vỡ nợ nói chi CS Việt Nam !

Các  nông trường lần lượt bị giải tán trong sự nuối tiếc, đau khổ của các tay CS thuần thành, báo chí Tây Phương gọi là giáo điều.

Thế là hai  bước đầu chập  chửng tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên XHCN bị dân miền Nam giáng cho quả đấm ù lì làm  vỡ mộng cho một lũ người dốt nát nhưng phách lối nhất trần gian.

4.22.  Chống Đối Tích Cực

Người Việt hải ngoại và thế giới bên ngoài không bao giờ biết rõ tội ác kinh khủng của CS khi chúng xử tử không biết bao nhiêu người ái quốc đứng lên tranh đấu vì nước họ mất giữa khoảng 1975-1980.  Trong thời gian nầy, trật tự CS bề ngoài kể như an bài, một số tổ chức vỏ trang chống Cộng lần lượt xuất hiện, hầu hết đều mang tên Phục Quốc.  Tại sao lại Phục Quốc ?  Đối với những người tham gia tổ chức và đa số thầm lặng ngầm yểm trợ cho họ, nước VN đả mất về tay một bọn cướp ngoại quốc mang tên CS.  Phải lấy nước lại với bất cứ giá nào.  Trong thực tế cái giá phải trả hết sức đắt.  Vì không có kinh nghiệm chiến đấu nên các tổ chức Phục Quốc lần lượt bị Công An phá vỡ.  Đa số đoàn viên là thành phần trẻ, đặc biệt Nam, Nữ đều có mặt.  Có người khi bị bắt chưa đến 18 tuổi, tuổi trưởng thành, nghĩa là khi biến cố 30-4-75 xãy ra họ còn là trẻ con, không có ân oán giang hồ gì với CS.  Họ đúng là bạch diện thư sinh, mặt mũi non choẹt, không một chút kinh nghiệm chiến đấu.  Chống đối thực dân CS không phải là một trò đùa.  Khi bị bắt, nhẹ thì bị tra tấn, có người thành tàn phế.  Người nào có sống trong tù ngục thời kỳ Phục Quốc đều đau lòng trước cảnh một cô gái Phục Quốc bị chiếu đèn pha vào mắt trở thành mù.  Một số bị xử tử dưới hình thức nhét trái chanh vào miệng một buổi sáng sớm, bị lôi ra pháp trường lãnh đạn, không tòa án nào xử, chỉ có một cái “án lệnh” do một sỉ quan Công An độc cho nạn nhân nghe chơi đở buồn trước khi bị bắn !

Chúng tôi kể những chuyện nầy ra không phải để tố khổ CS, chúng không xứng đáng bị tố khổ, chỉ xứng đáng bị dẹp bỏ, cũng không phải để xin sự thương hại của một lớp người Việt hải ngoại đang sống quá sung sướng so với đồng bào trong nước, những con người hiện thân cho sự ích kỷ, khi nghe chuyện chống Cộng trong nước thì biểu môi cho rằng khờ dại nếu không cho đây là chuyện bịa đặt, làm gì có vì CS quá mạnh điên sao mà chống nó !

Những người trẻ nạn nhân của CS là con người như chúng ta, tuổi họ là tuổi bắt đầu nếm thi vị của yêu đương.  Thay vì đi con đường đầy hoa mộng như cha anh họ thời trẻ, họ lại chọn lựa con đường chông gai, chiến đấu và chết.  Tại sao họ hành động như vậy ?  Tại sao họ quyết tâm Phục Quốc ?

Còn bao nhiêu người khác đã thoát ra được hải ngoại đả có đời sống ổn định, tại sao không hưởng thụ cuộc sống nhiều tiện nghi vật chất xứ người như hạng người Việt ích kỷ nói trên mà lại dấn thân về nước chiến đấu để chịu ngục hình  CS nếu không bị xử tử.  Xin kể rõ tên vài vị anh hùng đó:  Trần Văn Bá, Hồ Thái Bạch, Phạm Văn Thành, Trần Mạnh Quỳnh, Lý Tống.  Còn nhiều nữa.

Động cơ thúc đẩy các vị nầy chiến đấu cũng hệt như các anh hùng trẻ tuổi trong các tổ chức Phục Quốc trong nước:  “Nước Mất Nên Phải Lấy Lại.”

Ở Mỹ, trong những lần biểu tình, những đêm thắp nến chống Cộng, thật là cảm động.  Khi thấy có các cụ Ông, cụ Bà trên 80 tuổi tham gia.  Những vị bô lão khả kính nầy mong muốn dẹp bỏ CS để hưởng cái gì ?  Có phải các cụ, cũng như các chiến sĩ trẻ trong phong trào Phục Quốc thời nay, cũng như các Cụ Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Thái Học thời xưa đã bị một cái lực trong nội tâm không cưởng lại được thúc đẩy khi mọi người ý thức được thân phận dân mất nước nên tất cả phải dấn thân để lấy nước lại với bất cứ giá nào.

Chúng tôi kể những hình thức chống đối tiêu cực và tích cực của người Việt để nói lên một sự thực tại VN:  “Tiến trình CM dân tộc đang diễn tiến tại VN.”

Sự thực này có những hệ quả vô cùng quan trọng.  Khi nhận chân được thực tại đó, những người Việt nào còn nhận thấy mình là người Việt, còn ray rứt với cái đau, cái khổ của đồng bào trong nước, chúng ta sẽ thấy rõ hơn phải làm cách nào để giải quyết vấn đề VN.  Xin hẹn lại trong bài 2 sẽ trình bày đề tài: “Phải giải quyết vấn đề VN cách nào”.

Ngày 11-9-1998

B- GIẢI PHÁP

I- PHẢI GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ VIỆT NAM CÁCH NÀO

Trong bài trước, chúng tôi đả nói những gì đang xãy ra tại VN nằm trong tiến trình CM đang diễn tiến tức là một sự tranh đấu dai dẳng giữa:

-Một bên là bọn thống trị thực dân, ngày xưa là Pháp, ngày nay mang nhản hiệu CS.

-Một bên là dân Việt bị trị đã và đang chiến đấu để dành lại quyền tự mình quyết định số phận của mình.

Đây là cốt lõi, bản chất của tất cả mọi biến cố chính trị tại VN từ ngày CS nắm quyền năm 1945 đến nay.

Khi đặt vấn đề phải giải quyết vấn đề VN cách nào, giải pháp hợp lý nhất phải nằm trong xu thế biến chuyển tình hình chính trị tại VN.  Xu thế đó là hoàn tất cuộc CM của dân tộc; nghĩa là lấy lại chủ quyền trong tay thực dân CS để có một chánh quyền quốc gia phục vụ hoàn toàn cho lợi ích của toàn thể dân tộc VN.

Nói đến chủ quyền quốc gia, chúng tôi muón nói chủ quyền vừa chính trị lẫn kinh tế.  Ngày xưa , khi vua Lê Lợi lấy lại được chủ quyền chính trị, mục tiêu CM xem như hoàn tất được phần đầu.  Vấn đề chủ quyền kinh tế không đặt ra vì thực dân nhà Minh chưa nắm được kinh tế.  Ngày nay chúng ta ở hải ngoại đặt mục tiêu tranh đấu là dân chủ nhân quyền, nếu giả thiết CS ở trong hoàn cản bất khả kháng phải trả lại chủ quyền chính trị mà chúng vẫn nắm kinh tế như mưu toan của chúng hiện tại thì liệu vấn đề VN có được giải quyết dứt khoát không?  Hay là cuộc tranh đấu vẫn tiếp diễn không ai ngăn cản được khi có những người VN được hưởng tự do dân chủ nhưng sống trong nghèo đói triền miên.

Muốn có một ý niệm thô sơ về cảnh nghèo đói hiện tại của người Việt, hãy đọc bài phóng sự của một ký giả Việt Hải Ngoại mới về VN nói về đời sống của dân tĩnh Bắc Ninh ở cạnh Hà Nội với lợi tức bình quân đầu người/năm là 35 đô la ( Ngày Nay, số 397, ngày 15-9-98).

Giả thiết chúng ta tranh thủ được độc lập chính trị, thiết lập một trật tự chính trị mới phù hợp với nguyện vọng của dân bị áp bức qúa lâu, chắc chắn chúng ta sẽ thiế lập chế  độ dân chủ, một chế độ tuy chưa hoàn thiện nhưng là một chế đột ít tệ hại nhất trong các chế độ chính trị, vì dân bị áp bức còn cơ hội chống đối  lại sự lạm quyền của người cai trị.  Nếu CS còn nắm được TIỀ̀N, sức mạnh quyết định trong sinh hoạt chính trị thời nay, chúng lại được hoạt động trong môi trường dân chủ thì làm thế nào chính quyền tương lại thực thi được những chánh sách, chủ trương, đường lối để phục vụ cho quyền lợi dân tộc ?

Chúng ta cứ nhìn nước Nga sắp phá sản vào tháng 9/1998 đang kêu cứu quốc tế giúp đõ sẽ thấy tại sao phải làm CM ở VN.  Sau khi Liên Xô sụp đỗ, chính phủ không CS lên nắm quyền ở Nga.  Trật tự chính trị có thay đổi, nước nga bước vào ngưỡng cữa dân chủ.  Tuy nhiên phần lớn tài sản của nước Nga nhiều tài nguyên thiên nhiên nằm trong tay các đảng viện CS củ.  Đám nầy cấu kết với một số người trong chính quyền mới để tiếp tục khai thác sức lao động và tài nguyên thiên nhiên như dưới chế độ cũ.  Hậu quả của tình trạng Cách Mạng không phải Cách Mạng nầy là có một thiểu số nhà giàu mới, cựu  đảng viên CS nắm gần hết tài sản quốc gia, đa số người  Nga nghèo vẫn sống cơ cực, có lẽ còn khổ hơn trước vì mất đi những phúc lợi xã hội (nhà ở, giáo dục, y tế miễn phí) thời CS.   Trong bối cảnh chính trị nầy, nền kinh tế của Nga tuy được Tây Phương hết sức nâng đỡ, không tiến mà còn lùi đến tình tạng sắp phá sản.

Trước vết xe đỗ của Nga, chỉ có giải pháp CM để dành lại hoàn toàn chủ quyền chính trị và kinh tế mới giải quyết được tình trạng gần như tuyệt vọng của VN về mọi mặt (Kinh tế, xã hội, văn hoá) do chánh sách áp bức và bóc lột của CS gây ra.  Mọi giải pháp khác, nếu nằm trong khuôn khổ giải quyết của chế độc CS hiện hữu, chỉ là giải pháp cãi lương, tạm bợ không giúp cho dân Việt thoát khỏi cảnh khổ hiện tại, chính cảnh khổ nầy người Việt phải chịu đựng mỗi khi có chế độ thực dân là động cơ làm phát sinh CM.  Mong các nhà chính trị hiểu cho để khỏi phí phạm năng lực, ngày giờ rất quý báu khi xây dựng lại đất nước.

II- TẠI SAO PHẢI LÀM CÁCH MẠNG

Giải pháp CM phải chứng tỏ giá trị của nó trên hai phương diện sau đây mới xứng đáng được xem là bài thuốc thần diệu có thể cứu sống được một con bệnh trầm kha là VN hiện nay:

– Có đáp ứng lại nguyện vọng của dân Việt không ?
– Có tánh cách khả thi không ?

2.1- Nguyện vọng của dân tộc Việt Nam

Trong bài trước, chúng tôi có nói nguyện vọng thiết tha của người Việt từ ngày lập quốc là độc lập quốc gia vì sự độc lập nầy đảm bảo cho người Việt được sống theo cung cách văn hóa Việt mà họ ưa thích mặc dầu không chắc nền văn hóa này siêu việt hơn các nền văn hóa khác.  Các nước ngoại bang thực dân tìm cách tiêu diệt Văn Hóa Việt vì nền văn hóa đó còn thì còn sự chống đối của dân bị trị.

Khi nối tiếp sự cai trị của thực  dân Pháp, chánh quyền CS cũng không làm  gì khác ngoài việc giử vững chiếc ghế quyền lực của chúng.  Chúng ta hãy xem bao nhiêu thủ đoạn của CS để tiêu diệt nền văn hóa Việt, thay thế vào đó một  thứ văn hóa ngoại lai trong lối sống, lối suy nghĩ, phong tục, tập quán, thậm chí đến cả tiếng nói gọi là văn hóa xã hội chủ nghĩa.  Trong lời nói, văn hóa XHCN là cái gì tốt  đẹp nhất, tiến bộ nhất, nhưng sống trong nền văn hoá siêu việt nầy, ngoài đảng viên CS và bọn nịnh thần xu phụ theo cường quyền, đa số người Việt sống cuộc đời trâu ngưạ, làm cho người khác hưởng, mọi tự do căn bản của con người và công dân đều bị tước đoạt.

Khỏi cần làm những cuộc khảo sát xã hội dài giòng, chúng ta là thành phần trong cộng đồng Việt bị trị, chúng ta chỉ muốn thoát khỏi kiếp nô lệ, kiếp thú người để làm người tự do, có đủ cơm ăn áo mặc, những ước vọng khiêm tốn của người Việt đã từng được hưởng khi nước được độc lập, dân được sống trong nền văn hóa đặc thù của dân tộc.

Đáp ứng lại khát vọng nầy chỉ có CM mới dành lại trong tay CS chủ quyền kinh tế và chính trị, điều kiện cần thiết để thiết lập một trật tự chính trị và xã hội mới mà người Việt mong muốn.

2.2- Khả Thi

Khả thi  có nghĩa là  có thể thi hành được trong bối cảnh chính trị, kinh tế, xã hội hiện tại ở VN và  trên thế giới; và sự thi hành có nhiều triển vọng đạt đến mục tiêu mong muốn.

Để xem giải pháp CM có tánh chất khả thi không, chúng ta nên trở lại những kinh nghiệm quý báu của tiền nhân chúng ta trong mọi cuộc chiến đấu.

Người Việt thời xưa, trước khi nhảy vào một cuộc chiến đấu luôn luôn phân tích những yếu tố thuận lợi và bất thuận lợi về phía ta và địch để có thể dự đoán phần nào kết quả chung cuộc nghiêng về bên nào.  Sự phân tích tình hình nầy đặt nặng vào ba yếu tố chiến lược:  THỜI, THẾ, CƠ.

Trong thời nay tiến bộ kỷ thuật đã mang lại nhiều đảo lộn trong nghệ thuật chiến tranh nhưng sự đảo lộn này nằm trong lĩnh vực chiến thuật và ít có ảnh hưởng trong lĩnh  vực chiến lược.

Trong lịch sử cận đại Ông Nguyễn Hữu Chỉnh đả trình bày một cách xuất sắc một ước tính chiến  lược dựa trên ba yếu tố THỜI , THẾ , và CƠ trước ĐẠi ĐẾ́ Quang Trung để thuyết phục ngài đem quân Tây Sơn Bắc tiến dưới danh nghĩa Phù Lê Diệt Trịnh.

Chúng ta lần lượt khảo sát THỜI, THẾ, và CƠ trong hoàn cảnh chiến đấu hiện tại giữa người Việt bị trị và CS cai trị.

2.21- Thời

Chữ THỜI được các chiến lược gia VN từ ngàn xưa xem là yếu tố quan trọng nhất trong mọi cuộc chiến đấu.  Đây là điểm độc đáo trong tư tưởng chiến lược của dân tộc Việt.

Chử THỜI đối  với một tập thể như một chết độ chính trị, một lực lượng quân sự, đồng nghĩa với chử Được Thời, Thịnh Thời.  Nó diễn tả một khoảng thời gian mà tập thể, do một sự ngẫu nhiên nào đó, gặp nhiều may mắn, làm gì cũng thành công dễ dàng giống như nhà kinh doanh ở trong cảnh làm chơi ăn thiệt.  Ngoài những giải thích có tánh chất siêu hình không kiểm chứng được, người ta thấy đối với một chế độ chính trị chẳng hạn, sở dĩ chế độ gập nhiều may mắn, nhiều thắng lợi vì tập thể nầy NGẪU NHIÊN hội tụ được nhiều yếu tố thuận lợi như:  Lãnh đạo giỏi, đoàn kết nội bộ chặt chẻ, thành viên chế độ từ cao xuống thất nồng nhiệt với mục tiêu chung, nhiều người tài giỏi trong hàng ngủ, dân chúng ủng hộ, kẻ địch ở vào thời kỳ suy thóai v.v…

Khi một chế độ chính trị hết thời cũng một sự ngẫu nhiên hội tụ những yếu tố bất thuận lơi: lãnh đạo  bất tài, hũ hóa, nội bộ chia rẽ, cán bộ là một bè lũ nịnh thần, tham nhũng tràn lan, dân không ủng hộ, tệ nạn xã hội đầy dẫy v.v…  Triệu chứng hết thời là chuyện xui tới tấp xãy đến, làm gì cũng thất bại.

Chúng ta có thể so sánh chữ Thời của một chế độ chính trị với vận hên xui của một kẻ đánh bạc.

Một chế độ thịnh thời giống người đánh bạc gập vận đỏ hay hên.  Khi chế độ hết Thời gặp chuyện xui tới tấp giống như một con bạc hết lúc hên gập xui đánh đâu thua đó.  Tuy nhiên có một điểm khác biệt quan trọng.  Một con bạc hết lúc hên gặp lúc xui, nhưng không xui hoài (hết xui thì lên lại).  Một chế độ chính trị hết Thịnh qua suy để đi đến tiêu vong, không bao giờ trở lại được Thịnh Thời như trước.  Nếu có vẻ Thịnh trở lại chỉ là hình thức, một bước dừng chân tạm trên con đường tuột dóc.  Tại VN, chưa bao giời có một chế độ suy Thời mà Thịnh trở lại được.  Ví dụ nhà hậu Lê thời kỳ gọi là Trung Hưng, tuy đã khôi phục lại được  ngôi vua  nhờ họ Trịnh giúp sức, không còn quyền lực như trước khi  bị Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, ngồi chơi xơi nước đến khi Chúa Trịnh sụp đỗ thì sụp đỗ theo.

Bây giờ chúng ta nhìn lại THỜI của chế độ CS.

Thời (hay Thịnh Thời) của CS khởi đầu từ 1945 đến 1975, đúng 30 năm.   Năm 1945, thế của CS mạnh vô cùng mặc dầu chỉ có 5000 đảng viên vì đa số dân Việt thời đó bị mê hoặc bởi tuyên truyền CS, xem họ là những người có thể mang lại hạnh phúc cho dân, chống lại cường hào ác bá, tránh cho dân những tai họa khinh khủng như nạn đói năm 1945, trong lúc được thời, dân đứng sau lưng Đảng CS, nhờ thế họ mới phát động được toàn quốc kháng chiến thời gian 1945-54 và “Chống Mỹ Cứu Nước” thời gian 1965-75.

Khi thời đi qua, không biết có phải là do bàn tay thiêng liêng sắp đặt hay không, nhưng chúng ta thấy CS lần lần đánh mất hết các yếu tô đã mang lại cho chúng may mắn và thành công:  lãnh đạo tồi , nội bộ chia rẽ, cán bộ tham những mất lý tưởng tranh đấu, dân chúng chẳng những không ủng hộ mà quay lại chống, xả hội loạn lên.  CS chỉ còn lại vài con cờ thuận lợi như giá trị của vị trí địa lý chính trị VN đối với Trung Quốc làm cho Mỹ chiếu cố, hứa hẹn là sẽ biến VN thành đất hứa cho tư bản ngoại quốc đến hốt bạc.

Hiện tại thay vì gặt hái thành công, CS suy thời đang phải đối đầu với bao nhiêu khó khăn gần như nan giải về chính trị, kinh tài, xã hội.

Đó là thời hiện tại của CS.

Sau đây nhìn THỜI về phía chúng ta, những người tranh đấu cho CM Dân Tộc.  Thời của chúng ta biến chuyển theo chiều nghịch với thời của CS.  Khi chúng thịnh, ta suy, và ngược lại.  Nói thời chúng ta suy rồi thịnh lại không hề trái ngược với nhận xét ở trên nói rằng một chế độ suy thời không bao giờ thịnh lại như trước, chỉ đi đến tiêu vong.  Sở dĩ có hiện tượng có vẽ nghịch lý nầy là vì CM dân tộc là một giòng thác chớ không phải một chế độ cai trị nên không chịu quy luật Thịnh-Suy-Tiêu Vong của một chế độ cai trị, một vương triều trong lịch sử nước Việt.

Quy luật chi phối Thời của CM Dân Tộc là Thời nầy biến chuyển theo chiều nghịch với Thời của chế độ thực dân, địch Thịnh ta Suy và ngược lại. Thời của CM chỉ chấm dứt khi CM thành công, lấy lại chủ quyền quốc gia trong tay thực dân – Trong quá khứ cũng như thời hiện đại người Việt đã chứng kiến cảnh Thịnh Suy của CM diễn ra không biết bao nhiêu lần suốt 1000 năm Bắc Thuộc, 21 năm thuộc nhà Minh, 60 năm thuộc Pháp và nay dưới chế độ CS.

Sự biến chuyển đặc biệt của Thời trong CM Dân Tộc giải thích tại sao, trong lịch sử tranh đấu CM thời xưa cũng như nay, giòng thác CM không bao giờ ngưng chảy, vẫn lôi cuốn hết thế hệ nầy đến thế hệ khác lao vào tranh đấu mặc dầu đã bị thực dân đập cho tan nát nhiều lần.

Bởi vậy nếu nhìn thời cuộc trong khuông khổ đệ II Cộng Hòa ngày 30-4-75 chấm dứt một chế độ.  Một trật tự mới được an bài.  Nhưng nếu biết biến cố bi thảm nầy của dân miền Nam chỉ là một giai đoạn Suy trong tiến trình CM Dân Tộc thì cũng ngày này đánh dấu một gian đoạn mới với một hình thức chiến đấu mới với thực dân CS.  Bằng cớ hùng hồn của tiến trình CM dân tộc đang diễn tiến tại VN là 23 năm sau khi chúng ta mất hết, lãnh thổ, chánh quyền, dân chúng  lại có những người hăng say chiến đấu ở trong nước cũng như ở hải ngoại.  Trong số chiến  sĩ nầy một số thuộc thế hệ mới không có nợ nần gì với CS cũng như liên hệ nào với đệ nhị Cộng Hòa.

Khi chúng ta hô hào làm CM từ 1990 về trước, chúng ta sẽ thất bại và Thời của CS tuy đả qua nhưng tương quan lực lượng còn quá thiên về chúng.  Vào cuối thế kỷ 20, đưa ra giải pháp CM, chúng ta ở vào thời điểm mà  tương quan lực lượng thiên về ta, Thời tốt của CS đã qua.

Hành động CM trong giai đoạn nầy có xác suất thành công rất cao.

2.22 – Thế

Thế của một chế độ cai trị tùy thuộc vào Thời Thịnh hay Suy và Lực của chế độ .  Khi Thời đã qua, Thế đi xuống.  Tuy nhiên ở một vài trường hợp Thế đi lên khi Thịnh Thời khôgn còn nữạ  Sự đi lên nầy chỉ trong một giai đoạn nào thôi chớ không phải là tình trạng trường cửụ  Ngược lại khi Thịnh Thời Thế của tổ chức cũng có lúc đi xuống nhưng chỉ tạm môt thời gian nào đó rồi tiếp tục hướng đi lên.

Riêng về Lực thì đây là một yếu tố căn bản tạo nên Thế và chuyển biến theo chiều thuận với Thế, khi Lực mạnh thì Thế mạmh, Lực yếu thì Thế yếu theo.

Chúng ta đã biết Thời hiện tại của CS.  Tiếp theo chúng ta kiểm điểm Lực của CS để xem Thế của chúng biến chuyển ra sao.

Trước khi chiếm được miền Nam, Lực của CS gồm có bốn hợp phần:

1- Đảng Viên CS
2- Lực của một nhà nước trong đó có ba yếu tố quan trọng – Công An, Quân Đội, và Tiền
3- Đa số dân chúng bị tuyên truyền đầu độc ủng hộ CS.
4- Sự ủng hộ to lớn về tinh thần và vật chất của khối CS quốc tế.

Lực thế này ở vào Thời Thịnh đả tạo cho CS Việt Nam một Thế mạnh vồ cùng đi lên liên tục từ 1945 đến 1975.

Sau 30 năm nắm quyền cai trị độc tôn, CS bắt đầu nếm mùi cay đắng của một nhà kinh doanh hết Thời với Lực sút giảm quan trọng kéo theo Thế đi xuống liên tục.  Sở dĩ có chuyện nghịch lý nầy khi CS lên đến tột đỉnh quyền lực tại VN với sự thôn tính trọn vẹn miền Nam vì CS mất sự ủng hộ của dân với chánh sách áp bức bốc lột thẳng tay của một kẻ say men chiến thắng.  Một đòn chí tử khác giáng vào Lực của CS là Liên Xô bị giải tán đầu năm 1992.

Mất đi hai cái lực khách quan một nội, một ngoại hết sức quan trọng giúp cho CS thắng lợi liên tiếp trên chiến trường VN suốt 30 năm, cộng thêm với chủ trương, đường lối sai lầm khi hết thời, Thế của CS đang đi xuống liên tục từ sau 30-4-75 đến ngày nay.

Sau đây xin kể hai ví dụ cụ thể với tánh cách thời sự còn nóng hổi chứng tỏ thế yếu của CS.

Một là cuộc biểu tình của đồng bào Công giáo ở Trà Cổ năm ngóai.  Nếu cuộc biểu tình xãy ra trước 1975, chắc chắn là CS không ngần ngại đàn áp thẳng tay như chúng đã từng huy động một Sư Đoàn Bộ Binh đàn áp đồng bào Quỳnh Lưu nỗi dậy năm 1956.  Vào năm 1997, CS quá yếu Thế, không dám dùng vũ lực phải nhờ đức Giám Mục Xuân Lộc Nguyễn Nhật kêu gọi giáo dân ngưng biểu tình.

Hai là trả tự do cho những tù chính trị có tiếng tăm như Đoàn Việt Hoạt, Nguyễn Đan Quế, Lý Tống, Trần Mạnh Quỳnh, Thích Trí Siêu, Thích Tuệ Sĩ v.v..  Khi còn mạnh thế, CS không để cho các vị nói trên được toàn mạng trong tù, nói chi thả họ ra.

Biết rằng CS làm gì cũng tính toán lợi hại cẩn thận, họ thả tù chính trị để hy vọng được tư bản Âu Châu và Mỹ khen thưởng về nhân quyền, một cái cớ để tư bản tăng gia đầu tư và Mỹ ban cho quy chế tối huệ quốc về mậu dịch.  Tuy nhiên, dầu muốn hay không, khi bóp bụng thả tù chính trị, những con người ác ôn nầy đả ngậm bồ hòn làm một chuyện khi mạnh thế, Mỹ muốn áp đặt hình dáng cái bàn tại hội nghị Paris cũng không được !

Bây giờ, chúng ta duyệt qua Thế và Lực của CM dân tộc.  Từ năm 1945 đến 1975 thế chúng ta đi xuống mặc dầu từ 1955 chúng ta có một nhà nước hợp pháp ở nữa phần phía Nam nước Việt, có một lực lượng vũ trang gần 1 triệu tay súng, được một siêu cường viện trợ mạnh mẽ về quân sự và kinh tế.

Thế của chúng ta xuống vì hợp phần quan trọng của Lực chúng ta là nhơn dân miền Nam ủng hộ quốc gia thâu nhỏ lại vì sự kiểm soát nông thôn bên ta, nơi có đa số dân sanh sống không hữu hiệu trước sách lược ung thối nông thôn của CS.  Lực của bên ta  còn thâu nhỏ lại vì tinh thần binh sĩ xuống thấp trước cảnh hậu phương thay vì yểm trợ tiền tuyến đắc lực lại phô bày bộ mặt kinh tởm ăn chơi sa đọa của bọn tham nhũng và bọn cơ hội làm giàu nhờ chiến tranh.  Sau hiệp định Paris 1973, Mỹ rút bớt viện trợ cho miền Nam, CS quốc tế tăng gia viện trợ cho miền Bắc đã làm đảo lộn tương quan lực lượng thiên hẳn về miền Bắc sau một thời gian dài ở thế cân bằng.

Thế và lực của miền Nam sau hiệp định Paris càng ngày càng đi xuống đến mức chót là ngày 30-4-75.  Ngày này đánh dấu sự suy sụp hoàn toàn của Lực bên phía ta.  Chúng ta mất tất cả, lãnh thổ, chánh quyền, tài sản, dân chúng.

Nếu đây là một cuộc tranh chấp giữa hai chế độ Bắc Nam, thì đến đây là hết.  Trật tự mới được an bài.  Thế chính thống của CS trên toàn lãnh thổ VN được quốc tế nhìn nhận.  Nhìn bề ngoài chế độ CS giống như triều đại họ Trần thay thế triều đại họ Lý tại VN.

Đây là một sự thực biểu kiến với sự mất mát tất cả bên phía chúng ta.  Chỉ có một cái không mất bắt nguồn từ cái lực bí mật trong mội tâm mỗi người Việt gọi là HỒN NƯỚC.  Trong lịch sử, mỗi khi độc lập quốc gia bị xâm phạm thì hồn nước thúc đẩy TINH THẦN ĐỀ KHÁNG của dân Việt dưới mọi hình thức chống bọn thực dân cầm quyền.  Tinh thần đề kháng nầy đã giải thích tại sao, khi trật tự mới có vẽ an bài, cuộc chiến giữa địch và ta vẫn tiếp diễn, lần này mang một hình thức mới vô cùng nguy hiểm cho quyền lực CS, tức là NHÂN DÂN NỔI DẬY.  Cho đến bây  giờ, xuyên qua những cuộc nỗi dậy nhỏ lớn của dân Việt ở Thái Bình, Kim Nỗ, Thanh Hóa, Liên Khu Tư, Bắc Ninh, Trà Cổ, CS chưa có cách nào giải quyết ổn thỏa để mang lại ỔN ĐỊNH mà  chúng xem như căn bản trong chánh sách trị dân  của chúng.

Tinh thần đề kháng lại được chính sách áp bức bóc lột của CS tiếp tay tạo nên một cái Lưc mới và một Thế mới cho CM Dân Tộc.

Về mặt Lực, chúng ta có hợp phần quý nhất là nhân dân bất mãn trong nước càng ngày càng  tăng gia hàng ngũ  vì đời sống của dân càng ngày càng đen tối với sự gia tăng cảnh nghèo đói, tham nhũng, cường hào ác bá, xã hội đen.

Ở hải ngoại lực chống cộng đi xuống về số lượng vì sự ích kỷ của những con người chạy trón CS nay chỉ muốn hưởng thụ đời sống vật chất quá đầy đủ của các nước tạm dung, quên hẳn cảnh khổ của đồng bào bất hạnh tại quê nhà.  Tuy nhiên, về mặt phẩm lực chống cộng lại tăng gia to lớn vì qua sự sàng loc tự nhiên, những người còn thực sự chống Cộng, chúng tôi để qua một bên bọn xôi thịt, cơ hội, là một cái Lực hết sức nguy hiểm cho chê” độ CS  vì họ hiểu CS, dám hy sinh, dám làm những chuyện mà những tên tham sống sợ chết không dám làm như chuyện Lý Tống thả truyền đơn và nhảy dù xuống Sài Gòn năm 1992.  Vì run sợ những hành động đó nên CS đang tung tiền cho bọn bồi bút ở hải ngoại nói xa nói gần Lý Tống và nhiều người khác là cò mồi của chúng !

Lực quan hệ nhứt quyết định sự thành hay bại của CM trong tương lai là khối dân chúng trước kia ủng hộ CS trong chiến tranh với Pháp và Mỹ ở Bắc cũng như ở Nam.  Vào cuối thế kỷ 20, cái Lực vĩ đại này vì chánh sách áp bức , bóc lột của CS đã quay lại chống CS như ở Thái Bình và nhiều nơi khác.  Đây là lực lượng CM ở trong tình trạng TIỀM LỰC chớ không phải THỰC LỰC.  Họ chưa phải là phe ta, nhưng khi họ quay lại chống CS, chúng ta dể dàng kéo họ về phía ta với một chiến lược và các chiến thuật thích nghi.

Về Thế của CM, sau ngày 30-4-75 chúng ta không bị gò bỏ trong thế thủ để giử đất, giử dân.  Chúng ta mất tất cả nên chiến đấu để lấy lại những gì đã mất tức là chúng ta ở thế công.  CS thì bị ép vào thế thủ để cô ý giữ những gì đã cướp được.  Khi ở thế Công, chúng ta nắm quyền chủ động, yếu tố hết sức quan hệ trong mọi cuộc chiến đấu vì địch không biết ta đánh chúng cách nào, khi nào, ở đâu để dứt điểm.

2.23- Cơ

Cơ là cơ hội chiến thắng trong một cuộc chiến đấu.  Trong mọi trận chiến, quân sự hay chính trị, hai địch thủ đều có cơ hội chiến thắng khi tương quan lực lượng thiên hẳn về một bên, khi nội bộ của một phe bị chia rẽ, khi một nhân vật cao cấp của một phe làm nội ứng cho bên kia, khi một phe vô tình hay ở trường hợp bất khả kháng không che dấu được, để  lộ ra TỬ HUYỆT.

Nếu biết nhận định được cơ hội và khai thác đúng mức thì một phe lâm chiến sẽ thắng trận.

Thời nay, trong lĩnh vực CM, Cơ có nghĩa là Thời Cơ, tức là một biến cố quan trọng bộc phát trên những lĩnh vự như quân sự, kinh tế, chính trị, xã hội thúc đẩy dân chúng bất mãn đứng lên Tổng Nỗi Dậy trong lúc chánh quyền quá suy yếu không còn đủ lực để đàn áp.

Thời Cơ hiểu theo nghĩa trên chỉ diễn ra trong một nước độc tài nơi mà sự bất mãn của dân chúng vì những khuyết tật của chính quyền không được giải quyết bằng các thủ tục hiến định, tích luỹ lâu ngày như hơi nước trong một nồi nước sôi dậy làm vỡ tung nắp nồi, có khi bể nồi luôn.

Thời cơ chỉ diễn ra khi một chế độ độc tài suy Thời, phô bày một loạt yếu điểm như kinh tế khủng hoảng, dân đói, tham nhũng, cường hào ác bá, băng đảng xã hội đen lộng hành.  Đây là một miếng đất tốt cho hạt giống Thời Cơ nẩy mầm mà chính quyền không ngăn chặn được vì miếng dất tốt sỡ dĩ có được là do chính sách áp bức bóc lột của chế độ.  Thời cơ đưa đến một cuộc Tổng Nỗi Dậy có lẽ không bao giờ xẫy ra trong các xã hội lành mạnh như Đan Mạch nước đứng đầu thế giới về nền hành chánh trong sạch không tham nhũng.

Trong lý thuyết thấy dễ dàng nhưng trong thực tế yếu tố Cơ khó nắm bắt vô cùng và đây là tinh tuý của nghệ thuật chiến tranh phân biệt một chiến lược gia giỏi với một chiến lược gia dỡ.  Làm sao trong sự phức tạp của tình hình nhận định đúng đắn ý nghĩa của một biết cố để xem đây có phải là Thời Cơ không và biết rồi có khái thác đúng mức không ?

Chúng ta nên nhớ Thời Cơ đến rồi lại đi, lâu lắm mới trở lại.

Trong tiến trình CM Dân Tộc chống thực dân CS, chúng tôi thấy cơ hội chiến thắng đã đến với chúng ta khi phân tích hai yếu tố Thời và Thế của địch và của ta.  Chỉ còn yếu tố chót để  CM hoàn tất là những đoàn thể CM có nhận định đúng Thời Cơ không và khai thác đúng mức không.

III- CÁC YẾU TỐ NGOẠI QUỐC ẢNH HƯỞNG ĐẾN CÁCH MẠNG TẠI VIỆT NAM

Thời nay, CM Dân Tộc bị những yếu tố ngoại quốc ảnh hưởng nhiều hơn thời vua Lê Lợi, lúc đó yếu tố ngoại quốc duy nhất ảnh hưởng đến sự thành hay bại của cuộc khởi nghĩa là Thiên triều Bắc Kinh đang lúc thịnh thời.

Những yếu tố ngoại quốc thời hiện đại ảnh hưởng nhiều hơn đến cuộc diễn tiến CM với hai hướng tích cực và tiêu cực.

3.1- Tích Cực

Sau chiến tranh lạnh, xu thế chuyển biến các chế độ độc tài qua dân chủ đang diễn tiến tới khắp thế giới.  Đây là một giòng thác đang cuốn trôi dần các chế độ độc tài còn rơi rới trên thế giới mà chế độ độc tài Suharto mới bị lật đổ là biến cố gần nhất.

Một điểm tích cực khác cho CM là áp lực nhân quyền của người Việt lưu vong, của các tổ chức nhân quyền quốc tế và của những chánh quyền các nước dân chủ.  Một số nhà lãnh đạo tại các nước có tự do dân chủ, có khi là một  người có tâm độc tài, nhưng họ phải chìu dư luận trong nước để kiếm phiếu đã, đòi hỏi nhân quyền khi viện trợ cho CS Việt Nam.  Những đòi hỏi nầy không làm chuyển biến chế độ qua dân chủ nhưng gây thêm nhiều khó khăn cho đám cầm quyền CS đang đứng trước quá nhiều khó khăn vào cuối thế kỷ 20.

3.2- Tiêu Cực

Về mặt tiêu cực, CM gặp những trở ngại từ các thế lực ngoại quốc có quyền lợi tại VN.  Các trở ngại này không ngăn chặn được CM bùng nỗ nhưng làm cho biến cố nầy chậm lại khiến cho cảnh khổ của dân bị trị kéo dài thêm.

Hiện nay có hai thế lực lớn, với những động cơ khác nhau, có ảnh hưởng trực tiếp đến CMDT tại Việt Nam.  Đó là Trung Cộng và Mỹ.  Có những thế lực khác ảnh hưởng CM nhưng không đáng kể nên không bàn ở đây.

3.21- Trung Cộng

Cường quốc nầy thừa kế di sản Đại Hán của các triều đại tự xưng là Thiên Triều ngự trị tại Bắc Kinh.  Cái máu Thiên Triều đó khiến cho Trung Cộng không tha thứ cho một đàn em đã nhận bao nhiêu viện trợ của đàn anh rồi phản bội chạy theo Liên Xô.

Trung Cộng dùng nhiều thủ đoạn để gây khó khăn cho Việt Cộng từ lãnh thổ trên đất liền, dưới biển đến phá hoại kinh tế với đủ thứ tiểu xảo và tuông hàng lậu qua biên giới.  Tuy nhiên có một chuyện Trung Cộng không muốn xãy ra là chế độ CS sụp đỗ tại VN vì tác động tai hại của biến cố này đối với quyền lực CS tại Trung Quốc.

Trung Cộng chỉ có hai đường lối hành động (DLHD) khả dĩ ngăn chặn CM.

DLHD thứ nhất là kéo quân vượt biên giới đập tan lực lượng CM như quân lực khối Varsovie do Liên Xô lãnh đạo kéo vào Tiệp Khắc đập tan CM Nhung lần đầu năm 1968 mà báo chí Tây Phương gọi cuộc CM không đổ máu này là mùa xuân thành Prague.  Trong bối cảnh thế giới hiện nay, chắc Trung Cộng không dám áp dụng đường lối nầy vì Trung Cộng sẽ gặp nhiều hại hơn lợi ở quốc nội cũng như quốc tế.

DLHD thứ hai là dùng áp lực công khai và  bí mất đưa những tên CS cứng rắn, quyết tâm đập tan Tổng Nổi Dậy bằng biện pháp sắt máu như Thiên An Môn, lên nắm các vai trò chủ chốt trong đàn áp.  Tướng Đào đình Luyện Tổng tham mưu trưởng, có lập trường cỡi mỡ với các phần tủ đòi dân chủ trong Đảng, bị thay thế  thình lình vài tháng trước Đại Hội VIII.  Cộng đảng có thể nằm trong mưu toan đó của Trung Cộng.

Câu hỏi lớn, chưa có ai dám trả lời dứt khoát là khi có Tổng Nổi Dậy lệnh đàn áp bằng võ lực có được thi hành không?

3.22 – Mỹ

Chính sách dân chủ hóa tiệm tiến của Mỹ tại VN qua đường lối diễn biến hòa bình (thông qua kinh tế thị trường) có thể làm chậm lại tiến trình CMDT tại VN hiện nay.

Nước Mỹ xuyên qua lời tuyên bố không úp mỡ của đại sứ Peterson trong dịp tiếp xúc với Cộng Đồng Việt ở quận Cam là nước Mỹ mong muốn nước VN dưới chế độ CS chuyển biến qua dân chủ một cách hòa bình hay là diễn biến hòa bình nhờ áp lực của kinh tế thị trường.

Chúng ta hãy xem thị trường tự do có phép mầu nào để mang lại tự  do dân chủ cho một dân tộc đã khao khát của báu này từ hơn một thế kỷ rồi mà đến nay vẩn ăn bánh vẽ dân chủ ngoại trừ một thời gian ngắn dân được hưởng ở miền Nam.

Kinh tế thị trường là một mô hình sinh hoạt kinh tế có giá trị hơn hẳn các mô hình khác mà loài người thí nghiệm cho đến ngày nay.  Lý do làm  cho kinh tế thị trường mang lại sự sung túc cho nước nào áp dụng nó một cách đúng đắn là vì người doanh nhân được tự do kinh doanh và được hưởng thành quả của công sức lao động bỏ ra, nhờ thế họ cố hết sức làm việc và phát huy sáng kiến.

Kinh tế thị trường liên hệ với dân chủ tự do ở điểm muốn nhu cầu sinh hoạt kinh tế này có kết quả phải có một khung pháp luật đảm bảo quyền sở hữu, quyền tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh nhưng cá lớn không được nuốt cá bé, giá cả tuỳ thuộc vào luật cung cầu và mọi doanh nhân phải tôn trọng khế ước ký kết.  Các chế độ dân chủ là môi trường thuận lợi để cung cấp cái khung pháp luật cần thiết đó.  Tuy nhiên một chế độ độc tài muốn hưởng thành quả tốt đẹp của kinh tế thị trường cũng có thể thiết lập khung pháp luật này trong khi vẫn giữ tánh chất độc tài của chế độ như Nam triều Tiên thời các tướng lãnh cầm quyền, Đài Loan thời cha con ông Tưởng.  Không ai chối cãi hai chế độ nầy độc tài nhưng họ đã đạt được thành qủa kỳ diệu về phát triển để trở thành những con rồng, con cọp Á Châu như hiện tại.

Điểm mạnh của luận cứ thị trường tự do mang lại  tự do dân chủ nằm ở điểm, khi người dân nhờ kinh tế thị trường có được cuộc sống sung túc không phải để hết tâm trí vào chuyện chạy gạo hàng ngày, tự  nhiên họ có nhu cầu được sống thoải mái tự do và đòi hỏi chánh quyền phải thỏa mản các nhu cầu nầy.  Tuy nhiên điểm yếu của luận cứ nầy là khi đòi hỏi suông tự do dân chủ với chánh quyền độc tài, nhất là độc tài CS tại VN thì không bao giờ dân được thỏa mản.  Cứ nhìn chuyện bác sĩ Nguyễn Đan Quế, giáo sư Đoàn viết Hoạt chỉ đòi tự do dân chủ một cách ôn hòa đã lãnh mỗi người 20 năm tù thì rõ.

Với một chế độ độc tài, muốn hưởng tự do dân chủ dân phải tranh đấu kiên trì và mạnh bạo [mặc dù không chủ trương bạo lực].  Hình thức tranh đấu chính yếu  trong một chế độ độc tài là biểu tình bất hợp pháp tức là gây xáo trộn trật tự xã hội.  Dân hai nước Nam triều Tiên và Đài Loan ngày nay được sống trong chế độ dân chủ nhờ họ kiên tri đấu tranh có khi phải đổ máu chớ kinh tế thị trường không tự động mang tự do lại cho họ.

Người Mỹ dư biết chuyện trên cũng như họ dư biết khả năng thích ứng cao độ trước khó khăn để sống còn của CS tại VN.  Những con người đã từng giải tán Đông Dương CS Đảng để còn lại một hội vô thưởng vô phạt trước mắt đa số dân VN là “hội  nghiên cứu mác Xít” thì mặc dầu dốt họ cũng không ngu ngồi yên để cho thị trường tự do chuyển biến chiếc ghế độc tôn quyền lực.  Sự phản ứng của CS để vừa được hưởng lợi của kinh tế thị trường vừa giử đặc quyền đặc lợi là chuyện phải xãy ra.

Như thế người Mỷ có làm một chuyện vô tích sự khi thi hành một chánh sách mà kết quả mong đợi không bao giờ có ?

Chúng ta phải nhìn chiến lược dài hạn của Mỹ ở Viễn Đông sau đệ nhị Thế Chiến lòng trong bối cảnh bang giao Mỹ – CS tại VN sẽ thấy Mỹ có cái lý riêng của họ khi đề cao tương quan giữa kinh tế thị trường và tự do dân chủ tại VN.

Sau đệ nhị Thế Chiến, chánh sách trường kỳ của Mỹ ở Viễn Đông nhắm tạo một thế đứng vững chắc về ba phương diện quân sự, chính trị, kinh tế tại một khu vực có tiềm năng khinh tế hết sức lớn lao, góp phần cũng cố vị trí siêu cường số một trên thế giới của Mỹ.  Trong tinh thần đó, VN sau thế chiến II trở thành mục tiêu thèm muốn của Mỹ vì giá trị đặc biệt về mặt địa lý chính trị đối với Trung Cộng và vị trí trung tâm của VN trong khu vực Đông Nam Á, nơi có những bước phát triển kỳ diệu mặc dầu tạm thời đang bị suy thoát kinh tế.

Vế phía VN, đám lãnh đạo CS có hai mối lo sợ to lớn:

Một là Mỹ bắt tay Trung Cộng để phân chia quyền lợi trong vùng.  Trong trường hợp đó, nạn nhân chịu thiệt hại nhiều nhất của cuộc bắt tay nầy là CS tại VN.  Chúng sẽ ở trong thế cô lập không thế nào đương đầu lại nỗi trước sức ép càng ngày càng gia tăng của Trung Cộng.

Hai là kinh tế VN đang sắp bước vào cảnh suy thoái vì ảnh hưởng dây chuyền của cơn bảo kinh tế tại Đông Á.  Từ suy thoái đến KHỦNG HOẢNG kinh tế không xa cho lắm.  Nếu kinh tế khủng hoảng thì cảnh dân bất mãn tự động hùa nhau nổi dậy lật đổ chánh quyền độc tài như ở Nam Dương thế nào cũng xãy ra dầu cho tại VN có hay không có một Đảng CM để hướng dẫn dân chúng xuống đường.

Trên thế giới hiện nay chỉ có Mỹ mới có khả năng giải tõa hai mối lo tâm phúc của CS với sức mạnh to lớn về kinh tế và tài chánh.  Chỉ có Mỹ, trong tình thế hiện tại, mới cứu nguy cho nền kinh tế CS đang lâm bệnh đói đô la nặng nề với ngân khoản đầu tư của các tập đoàn đa quốc gia to lớn, với tiền cho vay của các định chế tài chính quốc tế như  Ngân Hàng Thế Giới, Quỷ Tiền Tệ Quốc Tế, với viễn ảnh ban phát quy chế tối huệ quốc  trong mậu dịch.

Về phía Mỹ trước viễn ảnh có được một tên tay sai dể bảo tại VN sẽ thỏa mãn những mục tiêu chiến lược của Mỹ tại Viễn Đông thì Mỹ cần nó tồn tại bất kể màu da của nó là trắng hay đỏ.  Để cho CS tồn tại thì Mỹ đồng ý với ý nghĩa ỔN ĐỊNH chính trị của CS.  Để có ổn định thì Mỹ không chấp nhận những màn xuống đường ở thành phố, nổi dậy ở nông thôn, tất cả đều là giáo đầu tuồng cho màn TỔNG NỖI DẬY.

Tuy nhiên, Chúng ta không thể bắt buộc Mỹ thương hay ghét CS như người VN.  Mỹ không có bạn hay thù vĩnh viễn.  Họ chỉ làm bạn giai đoạn với nước nào mang lợi cho họ.  Mỗi khi, CS Bắc Kinh hành động quá lố, CS Việt Nam tráo trở, Mỹ sẽ tìm những đối tác khác để hợp tác.  Liên Minh CMDT cần chuẩn bị sẵn sàng để chờ thời cơ.

Chúng ta thấy vì quyền lợi riêng, các thế lực trên thế giới có thể có những ảnh hưởng tiêu cực đến sự bùng nỗ cách mạng tại VN.  Tuy nhiên, họ chỉ có khả năng làm chậm lại ngày nhân dân bất mãn Tổng Nỗi Dậy nhưng không thể ngăn cản biến cố đó xãy ra nếu họ không giải quyết giùm cho CS ba điểm nóng sau:

– Hố phân cách giàu nghèo
– Tham nhũng
– Cảnh bị áp bức, bóc lột hàng ngày của dân Việt

IV- KẾT LUẬN

Trong bối cảnh kinh tế, chính trị, xã hội của VN hiện tại, khi biết được tiến trình CM Dân Tộc đang diễn tiến tại đó, giải quyết vấn đề VN bằng Cách Mạng Dân Tộc là giải pháp thích hợp nhất.

Khi CS còn Thời, Thế đi lên, Lực mạnh, kêu gọi Tổng Nỗi Dậy là kêu gọi tự sát một cách vô ích.  Khi CS hết Thời, Thế đi xuống, Lực co lại, không làm CM để cho chúng có thời  gian lấy lại Thế và Lực thì đắc tội lớn với tổ tiên.  Mong tất cả người Việt còn nghĩ đến đất nước hiểu cho.

Nhóm Thiện Chí
Ngày 9-10-98

 

Leave a comment